Lịch sử Việt Nam thế kỷ 13-14 (1226- 1400) gắn liền với công lao và sự phát triển rực rỡ của vương triều nhà Trần. Dưới đời Trần, các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội đều phát triển cao, tạo nên nền văn hóa đặc sắc của nước Đại Việt thời Trần.
Nếu quần thể đền Trần (Nam Định) là nơi vị họ tổ nhà Trần định cư ban đầu thì vùng đất Hưng Hà (Thái Bình) được xác định là quê hương, là nơi khởi nghiệp của gia tộc họ Trần cách đây gần 800 năm.
Tổ tiên nhà Trần vốn làm nghề đánh cá từ đất Đông Triều. Đến đời Trần Kinh thì chuyển về Tức Mặc (Nam Định) và qua đời ở đó. Con trai Trần Kinh là Trần Hấp, nhờ tìm được thế đất thiêng đã dời mộ bố về táng tại Mả Sao, hương Thái Đường, phủ Long Hưng, nay thuộc xã Tiến Đức (Hưng Hà) và cư trú tại đây. Từ nghề đánh cá, Trần Hấp cùng con cháu sau chuyển dần lên bờ làm ruộng và trở nên giàu có, ngày càng có thế lực mạnh để bước vào vũ đài chính trị. Đến đời thứ tư thì Trần Cảnh được trao ngôi báu từ nhà Lý.
Khi đã thành vương triều Trần, vùng đất Thái Đường – Long Hưng xưa, Hưng Hà ngày nay được chọn làm nơi xây dựng các đền thờ, lăng tẩm của Hoàng tộc nhà Trần. Thái tổ Trần Thừa được táng tại Thọ lăng. Thái Tông táng tại Chiêu lăng. Thánh Tông táng tại Dụ lăng, Nhân Tông táng tại Đức lăng.
Toàn cảnh Đền Trần Thái Bình
Khi giặc Mông – Nguyên tràn vào bờ cõi Đại Việt, Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn có bài hịch khuyên nhủ các tướng sĩ, ông cảnh báo nếu để non sông rơi vào tay giặc thì: “Không những xã tắc, tôn miếu của ta bị người khác dày xéo, mà mồ mả cha mẹ các ngươi cũng bị bới đào”. Lời cảnh báo của Hưng Đạo Đại Vương đã đúng. Sách Đại Việt sử ký toàn thư ghi chép lại: “Trước đó, quân Nguyên đã khai quật Chiêu lăng (lăng Trần Thái Tông) muốn phá đi, nhưng không phạm được tới quan tài…”.
Có lẽ, để bảo toàn phần mộ, đề phòng chiến tranh tiếp diễn nên hầu hết lăng tẩm các vua Trần từ vua Trần Anh Tông về sau được đưa về đặt tại Đông Triều. Vùng đất Thái Đường, nơi đặt tôn miếu nhà Trần dần trở nên hoang phế. Sau khi toàn thắng giặc, ngôi đền thờ các vua Trần đã được phục dựng lại, còn hành cung và lăng tẩm đã trở thành phế tích. Tiếc thay, ngôi đền này cũng đã bị phá hủy khi thực dân Pháp đổ bộ lên đất Thái Bình vào giữa thế kỷ trước. Nhân dân làng Tam Đường còn giữ được một số đồ thờ tự, trong đó có chiếc bài vị với dòng chữ: “Thái Tông hoàng đế ngự”.
Sau năm 1954, dấu tích của khu mộ táng các vua, hoàng hậu cùng hoàng tộc nhà Trần còn dễ dàng nhận được. Phía trước hành cung theo thế “tiền tam thai” có các nấm phần với tên gọi phần Thính, phần Trung, phần Bụt, phần Cựu, mả Tít… Phía sau hành cung theo thế “hậu thất tinh” có các nấm phần với tên gọi phần Lợn, phần Ổi, phần Quang, phần Mao, mả Bà Già… Từ sau năm 1954 trở lại đây, phần nhiều những ngôi mộ phía sau hành cung nằm xen kẽ trong khu dân cư đã bị hư hao dần.
Tại thôn Tam Đường, xã Tiến Đức, huyện Hưng Hà, nơi đặt hành cung và lăng tẩm, khi đào xuống 30 – 50cm vẫn thường gặp những hiện vật thời Trần như gạch, ngói, đầu rồng, tượng đất nung và đồ gốm sứ… Qua những lần khai quật và thám sát khảo cổ học, tuy chưa được tiến hành một cách có hệ thống nhưng bước đầu đã có thể hình dung được một số đường đi và vị trí đặt tẩm điện trong hành cung. Di chỉ khảo cổ học Tam Đường đã được xếp hạng di tích quốc gia.
Mấy thập niên qua, kể từ khi di tích đền Trần được tôn tạo thì lễ hội luôn được duy trì với quy mô lớn hơn vào ngày 13 tháng Giêng hàng năm theo đúng định lệ cổ truyền. Phần lễ bao gồm Lễ rước nước, lễ khai mạc, lễ tế mở cửa đền, lễ bái yết, dâng hương, tế mộ và các hoạt động khác diễn ra từ ngày 13 đến ngày 18 tháng Giêng.
Trong đó, rước nước là một trong những hoạt động thu hút rất đông nhân dân tham gia; nhằm gợi nhớ lại một thuở hàn vi con cháu Nhà Trần làm nghề chài lưới. Lễ rước nước diễn ra trước giờ khai hội. Hoạt động quan trọng nhất trong lễ rước chính là việc lấy nước thánh. Theo đó nước thánh phải lấy ở ngã ba tam tỉnh nơi giao lưu của dòng sông Luộc gặp sông Hồng và sông Thái Bình rồi đổ ra biển Đông. Cũng chính vì sự gắn bó với sông nước, nên các vị tổ tiên nhà Trần thường ghép tên mình với tên một loại cá, như Trần Kinh nghĩa là cá Kình, Trần Hấp nghĩa là cá Trắm, Trần Lý: cá chép, Trần Thừa: cá Nheo, Trần Thị Dung: cá Ngừ.
Phần Hội được tổ chức với nhiều trò chơi dân gian như: Thi pháo đất, gói bánh chưng, thi cỗ cá, kéo lửa nấu cơm cần, kéo co… Những năm gần đây còn tổ chức thêm các hoạt động: Triển lãm nhiếp ảnh mỹ thuật, liên hoan hát văn, thi viết thư pháp, triển khai gian hàng giới thiệu sản phẩm OCOP của tỉnh và huyện… Các phong tục trong lễ hội là những phong tục đẹp cần được bảo lưu và phát triển,hấp dẫn khách du lịch và cũng là sự thể hiện sâu sắc tinh thần uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ người trồng cây của ông cha ta từ ngàn xưa truyền lại.
Đông đảo Du khách thập hương tham quan, thắp hương tại đền Trần năm 2024.
Lễ hội đền Trần năm 2024 diễn ra từ ngày 13-17 tháng Giêng năm Giáp Thìn. Năm nay, lễ rước nước sẽ thu hút gần 80 đoàn ở trong và ngoài tỉnh với hơn 2.000 người tham gia, ngoài ra còn có các du khách, tín đồ Phật tử thập phương về tham dự. Trong các hoạt động phần hội, lần đầu tiên tại lễ hội đền Trần sẽ diễn ra liên hoan hát văn vào tối ngày 15 tháng Giêng ở sân tòa trung tế đền Vua, thu hút sự tham gia của Hội Thanh đồng đạo quan các huyện trong tỉnh. Chương trình bao gồm các giá đồng trong hệ thống thờ nhà Trần và hệ thống thờ Tứ phủ như giá Đức Thánh Trần, giá chầu Bát Tiên La, giá các Quan Hoàng… nhằm góp phần giữ gìn, phát triển và lan tỏa nghệ thuật chầu văn. Điều đáng nâng niu, trân trọng hơn cả là những lễ tục cổ được coi là di sản văn hóa thời Trần tại lễ hội đền Trần Thái Bình mang những giá trị đặc biệt không nơi nào có được đã ngày càng tỏa sáng để thắp sáng thêm niềm tự hào của miền quê phát nghiệp đế vương và là nơi đặt tôn miếu của triều Trần./.
Văn Học – Nguyễn Tuyết
Đài TT-TH Hưng Hà